ALEXAN INJ 500MG/ 10ML H/1 lọ
Thành phần: Cytarabine 50mg/ml.
thuốc điều trị ung thư và tác đọng vào hệ miễn dịch.
ALEXAN INJ 500MG/ 10ML
Thành phần: Cytarabine 50mg/ml.
Dược động học :
Hấp thu:
Cytarabine không hiệu quả khi uống; ít hơn 20% liều thuốc được hấp thu vào đường tiêu hóa.
Có thể đạt được mức độ tương đối hằng định trong huyết tương bằng sau khi tiêm dưới da hoặc tiêm bắp Cytarabine, nồng độ phóng xạ trong huyết tương lên đến mức đỉnh trong vòng 20-60 phút và thấp hơn nhiều so với đường tĩnh mạch. Nồng độ cytarabine trong huyết tương các bệnh nhân nhận cùng một liều thuốc rất khác nhau. Một số nghiên cứu cho rằng sự khác biệt này liên quan tới đáp ứng lâm sàng. Nồng độ trong huyết tương cao liên đới với sự thuyên giảm về mặt huyết học.
Phân phối:
Với nồng độ điều trị đạt được trong huyết tương là 0,005-1,0mg/l; 13,3% cytarabine trong huyết tương kết hợp với protein. Tỷ lệ thuốc kết hợp không lệ thuộc vào nồng độ trong giới hạn điều trị của thuốc.
Thực nghiệm với liều 2 hay 3g/cm2 bằng đường tĩnh mạch mỗi 12 giờ cho thấy thuốc đi vào hệ thần kinh trung ương một lượng lớn, sự phân cytarabine trong màn cứng, đi qua màng nhện và có thể cả nhu mô não tốt hơn dùng liều chuẩn tiêm trong vỏ. Trên bệnh nhân dùng liều chuẩn liên tục bằng đường tiêm dưới da và truyền tĩnh mạch, nồng độ thuốc trong dịch não tủy không đổi theo nhịp độ truyền.
Biến đổi sinh học:
Cytarabine được chuyển hóa bởi deoxycytidine kinase và những nucleotide kinase khác thành nucleotide triphosphate, một chất có tác dụng ức chế DNA polymerase. Cytarabine được hoàn nguyên dạng hoạt động bằng sự phosphoryl hóa trong nguyên bào leukemia và tủy xương bình thường. Cytarabine nhanh chóng bị khử amin bởi cytidine deaminase thành thành uracil arabinoside (1-b-D-arabinofuranosyluracil) không hoạt động. Quá trình này xảy ra chủ yếu ở gan, còn có trong máu và những mô khác ở mức độ ít hơn. Dường như sự cân đối giữa nồng độ kinase và deaminase là yếu tố quan trọng xác định tính nhạy cảm hay đề kháng của tế bào đối với cytarabine.
Bài tiết:
Sau khi tiêm tĩnh mạch nhanh Cytarabine, thuốc được đào thải khỏi huyết tương theo hai pha. Ðầu tiên là pha phân phối có thời gian bán hủy khoảng 10 phút, sau đó là pha thải trừ có thời gian bán hủy từ 1 đến 3 giờ.
Trong 24 giờ khoảng 80% chất phóng xạ có thể tìm thấy lại trong nước tiểu, trong đó 1-beta-D-arabinofuranosyluracil chiếm gần 90%.
Tác dụng :
Cytarabin (Ara-C), chất tương tự desoxycytosin nucleosid là một chất chống chuyển hoá. Cytarabin có tác dụng hoá trị liệu chống ung thư thông qua cơ chế đặc hiệu với pha S của quá trình phân chia tế bào hoạt động ( không có tác dụng trên pha nghỉ ) và ức chế tổng hợp DNA kèm theo tác dụng kìm hãm hoặc diệt tế bào ung thư. Thuốc có tác dụng rất ít trên RNA và quá trình tổng hợp protein. Không thấy có hiện tượng kháng chéo giữa Cytarabin và các thuốc chống ung thư khác. Cytarabin liều cao được dùng để điều trị bệnh bạch cầu khi dùng liều bình thường đã có tình trạng kháng thuốc tương đối.
Chỉ định :
Giảm nhẹ và duy trì tình trạng này cho cả người lớn và trẻ em mắc bệnh bạch cầu cấp tính không thuộc dòng lymphô. Thuốc cũng có ích trong việc điều trị bệnh bạch cầu khác, như là bệnh bạch cầu cấp tính dòng lymphô, bệnh bạch cầu mạn tính dòng tủy dòng tủy (giai đoạn nguyên bào). Có thể dùng Cytarabine đơn độc hay phối hợp với các chất chống ung thư khác những kết quả tốt nhất thường do trị liệu phối hợp. Nếu không điều trị duy trì thì sự thuyên giảm do Cytarabine chỉ thoáng qua. Thuốc đã được thực nghiệm trong nhiều bệnh ung thư khác nhau. Nói chung, thuốc có tác dụng trên một số ít bệnh nhân có khối u chắc. Một chương trình phối hợp thuốc với Cytarabine có ích cho trẻ em có u lymphô không phải Hodgkin. Cytarabine truyền tĩnh mạch liều cao 2-3g/m2 từ 1-3 giờ mỗi 12 giờ trong 2-6 ngày, kèm theo chất hóa trị liệu ung thư hoặc không, có hiệu quả điều trị đối với bệnh bạch cầu nhẹ, bệnh bạch cầu kháng thuốc và bệnh bạch cầu tái phát cấp tính.
Dùng Cytarabine đơn độc hay phối hợp với thuốc khác (methotrexate, hydrocortisone sodium succinate) tiêm trong vỏ để phòng ngừa hay điều trị bệnh bạch cầu màng não.
Chống chỉ định :
Cytarabine có chống chỉ định cho bệnh nhân mẫn cảm với thuốc.
Thận trọng lúc dùng :
Chỉ có bác sĩ nhiều kinh nghiệm hóa trị liệu ung thư mới nên dùng Cytarabine.
Trong liệu pháp cảm ứng, bệnh nhân phải được điều trị kèm theo xét nghiệm và đủ biện pháp hổ trợ để theo dõi sự dung nạp thuốc để bảo vệ và duy trì một bệnh nhân bị tổn hại bởi độc tính của thuốc.
Bác sĩ phải cân nhắc ích lợi của thuốc trên bệnh nhân với những tác dụng độc của thuốc trong khi suy xét khả năng thích hợp điều trị của Cytarabine. Trước khi quyết định hay bắt đầu điều trị, bác sĩ phải quen thuộc với thử nghiệm sau đây. Cytarabine là thuốc ức chế tủy xương mạnh. Ðiều trị phải được bắt đầu một cách thận trọng trên bệnh nhân đang bị ức chế tủy xương bởi thuốc. Những bệnh nhân dùng thuốc này phải được giám sát y tế chặt chẽ và suốt thời gian trị liệu cảm ứng, phải được đếm bạch cầu và tiểu cầu hàng ngày. Xét nghiệm tủy xương phải được tiến hành thường xuyên sau khi các nguyên bào không còn trong máu ngoại biên. Phải có các phương tiện thích hợp để xử lý biến chứng, có thể gây chết, của ức chế tủy xương (nhiễm trùng hậu quả của giảm bạch cầu hạt và các tổn thương khác của hệ thống phòng vệ cơ thể, và xuất huyết thứ phát bởi giảm tiểu cầu). Ðã có một trường hợp phản vệ làm ngưng tim phổi cấp tính phải hồi sức cấp cứu, xảy ra ngay sau tiêm tĩnh mạch Cytarabine.
Nếu dùng liệu pháp liều cao, không được sử dụng chất pha loãng chứa benzyl alcohol. Benzyl alcohol có liên quan đến “Hội chứng thở hổn hển” gây chết ở trẻ sinh non. Nhiều nhà lâm sàng đã phục nguyên thuốc bằng sodium chloride 0,9% không chứa chất bảo quản và dùng ngay.
Bệnh nhân dùng Cytarabine phải được theo dõi chặt chẽ. Yêu cầu là phải đếm tiểu cầu và bạch cầu và xét nghiệm tủy xương thường xuyên. Nên nghĩ đến vệc ngưng hoặc thay đổi trị liệu khi sự ức chế tủy xương gây ra đếm tiểu cầu dưới 50.000 hay bạch cầu đa nhân dưới 1000/mm3. Các yếu tố trong máu ngoại biên có thể tiếp tục giảm sau khi ngưng thuốc và đạt trị số thấp nhất sau 12-24 ngày. Nếu có chỉ định, nên khởi sự điều trị lại khi xuất hiện dấu hiệu khẳng định sự phục hồi tủy (qua các xét nghiệm tủy xương liên tiếp).
Những bệnh nhân được ngưng thuốc đến khi trị số máu ngoại biên trở lại “bình thường” có thể thoát khỏi sự kiểm soát.
Viêm tắc tĩnh mạch tại chỗ tiêm hay truyền xảy ra trên một số bệnh nhân, và hiếm có bệnh nhân ghi nhận đau và sưng ở chổ tiêm dưới da. Tuy nhiên, trong đa số trường hợp, thuốc được dung nạp tốt. Khi tiêm tĩnh mạch nhanh liều lớn, bệnh nhân thường buồn nôn và có thể nôn nhiều giờ sau tiêm.
Vấn đề này có vẻ ít trầm trọng hơn khi truyền tĩnh mạch. Gan người giải độc được phần lớn liều cho. Nên thận trọng khi dùng thuốc và ở liều giảm bớt trên bệnh nhân có chức năng gan kém. Phải tiến hành kiểm tra định kỳ về tủy xương, chức năng gan và thận cho bệnh nhân dùng Cytarabine.
Cũng như các thuốc gây độc tế bào khác, Cytarabine có thể gây tăng urê máu thứ phát do ly giải nhanh tế bào ung thư. Bác sĩ phải theo dõi nồng độ acid uric trong máu bệnh nhân và sẳn sàng mọi phương tiện trợ giúp và thuốc men cần thiết để kiểm soát được tình trạng này.
Viêm tụy cấp đã xảy ra trên bệnh nhân dùng Cytarabine phối hợp với các thuốc khác.
Có hai bệnh nhân thời niên thiếu bị bệnh bạch cầu dòng tủy cấp được tiêm trong vỏ và tiêm tĩnh mạch Cytarabine theo liều qui ước, cùng lúc với một số thuốc khác, về sau đã bị liệt tiến triển hướng lên dẫn đến chết một trong hai người.
Hai bệnh nhân được điều trị Cytarabine theo liều qui ước và daunomycin bị đau khi ấn bụng (viêm phúc mạc) và viêm đại tràng guaiac dương tính. Cả hai đã đáp ứng với điều trị bảo tồn. Hai người đều có giảm bạch cầu trung tính và tiểu cầu và được cho dùng nhiều thuốc khác. Các tác giả đề nghị xử trí bảo tồn, thận trọng trên bệnh nhân dùng Cytarabine mà có bụng ngoại khoa, nhưng không thể chẩn đoán ngoại khoa xác định được.
Trong xưởng sản xuất các tác dụng do tiếp xúc nhiều không ghi nhận được. Có thể mắt bị kích thích nhẹ. Tiếp xúc qua da liên tục hay lặp đi lặp lại có thể gây kích thích. Trường hợp có tai bến do tiếp xúc nên rửa sạch vùng chịu ảnh hưởng với nước và xà bông.
Dùng đường tiêm trong vỏ:
Nếu tiêm trong vỏ, không được sử dụng chất pha loãng chứa benzyl alcohol. Nhiều nhà lâm sàng đã phục nguyên thuốc bằng sodium chloride 0,9% không chứa chất bảo quản và dùng ngay.
Cytarabine tiêm trong vỏ có thể gây độc toàn thân và có chỉ định theo dõi kỹ hệ thống tạo huyết cầu. Có thể cần phải thay đổi trong điều trị chống bệnh bạch cầu.
Hiếm có độc tính lớn. Phản ứng thường thấy nhất sau khi tiêm trong vỏ là buồn nôn, nôn và sốt, chúng nhẹ và tự giới hạn. Có báo về tình trạng liệt hai chi dưới. Bệnh chất trắng não hoại tử xuất hiện trên 5 trẻ em; những bệnh nhi này còn được tiêm trong vỏ methotrexate và hydrocortisone, cùng xạ trị hệ thần kinh trung ương. Ðộc tính trên thần kinh riêng lẻ được ghi nhận. Hai bệnh nhân trước đó được hoá trị liệu toàn thân phối hợp, xạ trị phòng ngừa hệ thần kinh trung ương và tiêm trong vỏ Cytarabine bị mù khi bệnh thuyên giảm.
Các ổ thâm nhiễm bạch cầu của hệ thần kinh trung ương có thể không đáp ứng với Cytarabine tiêm trong vỏ và xạ trị có thể cho kết quả tốt hơn.
Tính sinh u, sinh đột biến, tổn thương sinh sản:
Tổn thương rộng lớn nhiễm sắc thể, gồm đứt gãy nhiễm sắc do cytarabine và biến hình ác tính tế bào gậm nhấm trong nuôi cấy đã được quan sát thấy.
Tương kỵ:
Cytarabine được biết là tương kỵ vật lý với heparin, insulin, methetrexate, 5-fluorouracil, nascillin, oxacillin, pelicillin G và methylprednisolone sodium succinate.
Tính ổn định và tương hợp sau khi phục nguyên:
Các nghiên cứu về tính ổn định lý hóa của Cytarabine cho thấy cytarabine bền vững ở nhiệt độ phòng trong 7 ngày khi pha trộn ở nồng độ 0,5mg/ml trong chai thủy tinh IV và túi nhựa IV với: nước để tiêm, dextrose 5% để tiêm, và dung dịch sodium chloride 0,9% để tiêm. Cũng vậy, khi pha trộn tương tự từ 8-32mg/ml trong chai thủy tinh IV và túi nhựa IV, cytarabine bền vững trong 7 ngày ở nhiệt độ phòng, -20 độ C, và 4 độ C trong dung dịch dextrose 5% tiêm; dextrose 5% trong sodium chloride 0,2% để tiêm; và, trong dung dịch sodium chloride 0,9% để tiêm.
Cytarabine bền vững ở nhiệt độ phòng ở nồng độ 2 mg/ml với sự hiện diện của KCl tương đương với 50mEq/500ml trong dextrose 5% và sodium chloride 0,9% cho tới 8 ngày.
Cytarabine bền vững ở nhiệt độ phòng và nhiệt độ tủ lạnh (8 độ C) ở nồng độ 0,2-1,0mg/ml với sự hiện diện của sodium bicarbonate tương đương với 50mEq/L trong dextrose 5% pha trong nước hay dextrose 5% pha trong sodium chloride 0,2% 7 ngày trong chai thủy tinh Travenol hay túi Viaflex.
Tương hợp thuốc:
Cytarabine tương hợp với những thuốc sau, ở nồng độ đặc biệt, trong dextrose 5% pha trong nước trong 8 giờ: Cytarabine 0,8mg/ml và sodium cephalothin 1,0mg/ml; Cytarabine 0,4mg/ml và prednisolone sodium phosphate 0,2mg/ml; cytarabine 16mcg/ml và vincristine sulfate 4mcg/ml.
LÚC CÓ THAI VÀ LÚC NUÔI CON BÚ
Lúc có thai:
Cytarabine gây quái thai trên vài loại động vật.
Chỉ được sử dụng thuốc này trên phụ nữ đang mang thai hay có thể sắp mang thai sau khi suy xét lợi ích và nguy cơ cho mẹ và con. Phụ nữ có khả năng mang thai phải được khuyên nên tránh có thai.
Bởi vì trị liệu gây độc tế bào có tiềm năng sinh dị tật, nhất là trong 3 tháng đầu, một bệnh nhân đang có thai hay có thể mang thai trong khi dùng Cytarabine phải được báo cho biết nguy cơ đối với thai nhi và tính hợp lý của việc tạm ngưng thai kỳ.
Lúc nuôi con bú:
Người ta chưa biết thuốc có bài tiết vào sữa mẹ không. Bởi vì nhiều loại thuốc bài tiết vào sữa mẹ và khả năng gây phản ứng phụ trầm trọng cho trẻ bú mẹ của cytarabine, cần phải quyết định xem nên thôi cho bú hay ngưng thuốc, căn cứ trên sự quan trọng của thuốc đối với bà mẹ.
Tương tác thuốc :
Sự phối hợp cytarabine với thuốc chống ung thư hay ức chế tủy khác hoặc xạ trị tăng cường độc tính cũng như tác động ức chế miễn dịch của các thuốc trong một số trường hợp.
Một liều kìm tế bào của Cytarabine dẫn tới sự giảm có thể phục hồi được nồng độ digoxin ổn định trong huyết tương và sự bài tiết glycoside qua thận. Mức độ digoxin phải được theo dõi chặt chẽ suốt quá trình trị liệu kìm tế bào. Nồng độ digitoxin ổn định trong huyết tương có vẻ không đổi. Việc sử dụng digitoxin cho những bệnh nhân này có thể coi là trị liệu thay thế.
Một nghiên cứu về sự tương tác giữa gentamicin và cytarabine cho thấy cytarabine liên quan tính đề kháng của K. pneumoniae. Nghiên cứu này đề nghị trên bệnh nhân dùng cytarabine được đều trị nhiễm K. pneumoniae với gentamicin, sự thiếu đáp ứng nhanh chóng điều trị chứng tỏ sự cần thiết phải đánh giá lại trị liệu kháng sinh.
Chứng cứ lâm sàng ở một bệnh nhân cho thấy Cytarabine có khả năng ức chế hiệu quả của fluorocytosine, có thể do sự ức chế cạnh tranh chất nhận.
Tác dụng phụ:
Những phản ứng định trước:
Vì Cytarabine là chất ức chế tủy xương, hậu quả định trước của việc sử dụng thuốc là thiếu máu, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, tăng nguyên hồng cầu khổng lồ và giảm hồng cầu lưới. Mức độ các phản ứng này phụ thuộc liều lượng và phác đồ. Có thể tiên đoán được những thay đổi về hình dạng tế bào trong tủy xương và phết màu ngoại biên.
Sau năm ngày truyền tĩnh mạch hoặc tiêm từ 50mg/m2 đến 600mg/m2, sự ức chế bạch cầu trải qua hai giai đoạn. Không tính số đếm ban đầu, liều lượng, hay phác đồ, bạch cầu bắt đầu giảm trong 24 giờ đầu tiên tới điểm thấp nhất vào ngày 7-9. Sau đó thoáng tăng lên với đỉnh vào khoảng ngày 12. Lần thứ 2 giảm nhiều tới điểm thấp nhất vào ngày 15-24. Trong 10 ngày tiếp sau nhanh chóng tăng lên trên mức căn bản. Sự ức chế tiểu cầu thấy được vào ngày 5 với đỉnh thấp nhất vào giữa ngày 12-15. Trong 10 ngày tiếp theo nhanh chóng tăng lên trên mức căn bản.
Biến chứng nhiễm trùng:
Nhiễm siêu vi, vi khuẩn, vi nấm, ký sinh trùng hay nhiễm vi sinh vật hoại sinh, ở bất cứ vị trí nào của cơ thể, có thể liên quan đến việc sử dụng Cytarabine đơn độc hoặc phối hợp với chất ức chế miễn dịch khác theo sau liều ức chế miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào. Những nhiễm trùng này có thể nhẹ, có thể nặng và có khi gây tử vong.
Hội chứng Cytarabine:
Hội chứng Cytarabine đã được mô tả. Ðặc điểm của nó là sốt, đau cơ, đau xương, thỉnh thoảng đau ngực, nổi ban dát sẩn, viêm kết mạc và mệt mỏi. Thường xuất hiện 6-12 sau khi dùng thuốc. Corticosteroid hữu ích để trị hay ngừa hội chứng này. Nếu nghĩ rằng triệu chứng có thể chữa được, cần phải nghĩ đến corticosteroid cũng như tiếp tục trị liệu với Cytarabine.
Những phản ứng thường xảy ra nhất:
Chán ăn, rối loạn chức năng gan, buồn nôn, ôn mửa, tiêu chảy, sốt, nổi ban, viêm tắc tĩnh mạch, viêm hay loét miệng và hậu môn.
Buồn nôn và nôn thường xảy ra nhất sau khi tiêm tĩnh mạch.
Những phản ứng phụ ít xảy ra hơn:
Nhiễm độc máu, viêm phổi, viêm mô tế bào tại nơi tiêm đau bụng, loét da, tàn nhang, bí tiểu, vàng da, rối loạn chức năng thận, viêm kết mạc, viêm thần kinh (có thể kèm theo nổi ban), độc tính trên thần kinh, chóng mặt, đau họng, rụng lông tóc, loét thực quản, viêm thực quản phản vệ (xem Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng), viêm thực quản, phù dị ứng, đau ngực, ngứa, nhức đầu, hơi thở ngắn, nổi mề đay.
Trị liệu liều cao:
Phác đồ liều cao Cytarabine (2-3g/m2) có độc tính nặng, đôi khi gây chết, trên hệ thần kinh trung ương, hệ tiêu hóa và phổi (khác với các phản ứng do dùng Cytarabine theo liều qui ước). Những phản ứng nặng này bao gồm:
– Ðộc tính trên giác mạc, và viêm kết mạc xuất huyết, có thể phòng ngừa hay giảm nhẹ bằng thuốc nhỏ mắt corticosteroid.
– Loạn chức năng não và tiểu não như thay đổi nhân cách, mất ngủ và hôn mê, thường hồi phục được.
– Loét đường tiêu hóa nặng, bao gồm: chứng trướng khí nang ruột dẫn tới viêm phúc mạc.
– Nhiễm độc máu và áp xe gan.
– Phù phổi.
– Tổn thương gan kèm theo tăng bilirubin máu.
– Hoại tử ruột.
– Viêm đại tràng hoại tử.
Hai bệnh nhân bạch cầu cấp không thuộc dòng lymphô đã bị bệnh thần kinh vận động và cảm giác ngoại biên sau khi dùng liều cao Cytarabine, daunorubicin và asparaginase. Những bệnh nhân dùng liều cao Cytarabine phải được theo dõi biến chứng thần kinh bởi vì có thể cần thay đổi liều trong phác đồ để tránh những rối loạn thần kinh không hồi phục rất hiếm khi được ghi nhận.
Mười bệnh nhân được thực nghiệm liều trung gian (1g/m2) Cytarabine đơn độc hay phối hợp với hóa dược khác (amsacrine, daunorubicin, etoposide) bị viêm phổi mô kẽ lan tỏa nguyên nhân không rõ ràng có thể là do Cytarabine.
Ðã có báo cáo về trường hợp phát ban không nặng, dẫn đến tróc vẩy da. Rụng lông tóc toàn thân thường thấy ở trị liệu liều cao hơn là với liều Cytarabine chuẩn.
Nếu trị liệu liều cao, không được dùng chất pha loãng có benzyl alcohol.
Bệnh về cơ tim dẫn đến tử vong tăng lên sau khi thực nghiệm liều cao Cytarabine và cyclophosphamide để chuẩn bị ghép tủy xương. Ðiều này có thể phụ thuộc vào liều thuốc.
Hội chứng nguy kịch hô hấp đột ngột, tiến triển nhanh chóng đến phù phổi và tim to rõ rệt trên phim X quang tiếp sau thực nghiệm liều cao Cytarabine để điều trị bệnh bạch cầu tái phát. Ở một trường hợp, hậu quả của hội chứng này là tử vong.
Liều lượng – cách dùng:
Cytarabine không có tác dụng khi uống. Phác đồ và cách sử dụng thay đổi theo chương trình trị liệu. Có thể truyền hay tiêm tĩnh mạch, tiêm dưới da hoặc trong vỏ.
Khi được tiêm mạch nhanh bệnh nhân có thể dung nạp thuốc ở liều cao hơn so với truyền tĩnh mạch chậm. Hiện tượng này là do tính gây bất hoạt nhanh chóng của thuốc và sự phơi nhiễm ngắn ngủi của các tế bào bình thường và ung thư nhạy cảm với nồng độ thuốc cao sau khi tiêm nhanh. Dường như tế bào bình thường và tế bào ung thư đáp ứng gần giống nhau đối với những cách sử dụng này và ưu thế điều trị không biểu hiện một cách dứt khoát.
Trong liệu pháp gây cảm ứng với bệnh bạch cầu cấp tính không thuộc dòng lymphô, liều cytarabine thường dùng phối hợp với thuốc chống ung thư khác là truyền tĩnh mạch liên tục 100mg/m2 mỗi ngày (ngày 1-7) hoặc tiêm tĩnh mạch 100mg/m2 mỗi 12 giờ (ngày 1-7).
Trong bệnh bạch cầu cấp tính dòng lymphô phải tham khảo y văn về những khuyến cáo hiện hành.
Dùng đường trong vỏ ở bệnh bạch cầu màng não:
Cytarabine được dùng tiêm trong vỏ cho bệnh bạch cầu cấp với liều từ 5mg/m2 đến 75mg/m2 bề mặt cơ thể. Cách tiêm thay đổi từ một lần mỗi ngày trong 4 ngày đến một lần mỗi 4 ngày, liều thường dùng nhất là 30mg/m2 mỗi 4 ngày cho đến khi xét nghiệm dịch não tủy bình thường, kế đến là một điều trị bổ sung. Phác đồ này thường được quyết định tùy theo kiểu biểu hiện và độ trầm trọng của triệu chứng thần kinh trung ương cũng như đáp ứng với điều trị trước đó.
Cytarabine được tiêm trong vỏ với hydrocorytisone sodium succinate và methotrexate để trị liệu phòng ngừa ở trẻ mới được chẩn đoán bệnh bạch cầu cấp dòng tủy, cũng như trong điều trị bệnh bạch cầu màng não.
Sullivan đã báo cáo liệu pháp ba thuốc phòng ngừa này ngăn chận được bệnh thần kinh trung ương về sau, liệu pháp này còn cho sự trị liệu toàn diện và tỷ lệ sống sót tương tự nhóm bệnh nhân được phòng ngừa bằng xạ trị thần kinh trung ương và tiêm trong vỏ methotrexate.
Liều Cytarabine là 30mg/m2,Hydrocortisone sodium succinate 15mg/m2, và methotrexate 15mg/m2. Bác sĩ cần phải đọc bài báo cáo này trước khi bắt đầu điều trị.
Liệu pháp ba thuốc phòng ngừa cũng hữu ích tiếp sau điều trị thành công giai đoạn màng não cấp tính. Bác sĩ phải tự tra cứu y văn hiện hành trước khi thực hiện một chương trình như vậy.
Dùng cho trẻ em:
Sử dụng Cytarabine trên trẻ em tương tự sử dụng trên người lớn.
Pha thuốc:
Cytarabine chủ yếu được pha thành dung dịch dùng một lần.
Khi pha chế để sử dụng nhiều lần, chất pha loãng phải có chứa chất bảo quản.
Bột Cytarabine vô trùng có thể được hòa tan trong nước để tiêm 0,9% sodium chloride hay 5% glucose trong nước có chứa hoặc không chứa chất bảo quản.
Ðể tiêm trong vỏ thì đề nghị dùng 0,9% sodium chloride không chất bảo quản.
Qúa liều :
Không có chất giải độc dành cho sự dùng quá liều Cytarabine. Truyền tĩnh mạch 12 liều cách nhau mỗi 12 giờ với mỗi liều là 4,5g/m2 truyền trong hơn một giờ gây tình trạng tăng độc tính không hồi phục được trên hệ thần kinh trung ương và tử vong.
Bảo quản:
Bảo quản sản phẩm chưa pha ở nhiệt độ phòng từ 15-30 độ C.
Sau khi phục nguyên với chất pha loãng có chất bảo quản, dung dịch có thể giữ ở nhiệt độ trên trong 48 giờ. Sau khi phục nguyên với chất pha loãng không chứa chất bảo quản, sử dụng dung dịch càng.